• Nhật ký vũ trụ của Ijon Tichy

Cuộc phiêu lưu thứ mười bốn


Chia sẻChia sẻChia sẻ

19 tháng VIII. Đưa tàu vào xưởng sửa chữa. Trong chuyến bay sau cùng mình cho tàu bay quá gần Mặt Trời nên toàn bộ lớp sơn trên thành tàu đều bị rộp cả lên. Viên quản lý xưởng khuyên nên sơn màu xanh. Còn phân vân chưa quyết định. Sáng nay từ sớm tôi ngồi sắp xếp lại bộ sưu tập của mình. Tấm da của con gargoon bị mốc hết cả. Rắc bột trừ nấm cho nó. Cả buổi chiều ngồi chơi ở nhà Tarantoga. Cùng hát những bài ca Sao Hỏa. Mượn ông ta cuốn "Hai năm trời sống giữa bầy kurdli và thú tám vòi" của Brizard. Đọc suốt đêm. Hay không thể tả.

20 tháng VIII. Đồng ý sơn màu xanh. Viên quản lý lại khuyên mua một bộ óc điện tử. Ông ta hiện có một bộ rất chỉnh, mới sử dụng chưa lâu, công suất bằng một tá máy hơi nước. Ông ta thề rằng thời bây giờ mà không có óc điện tử thì không ai buồn đi đâu dù chỉ là lên Mặt Trăng. Do dự – ông ta đòi đắt quá! Thật xấu hổ vì mình chưa bao giờ thấy con kurdli cả.

21 tháng VIII. Buổi sáng đến xưởng. Viên quản lý đưa cho xem bộ óc điện tử. Quả thật là chỉnh, có cả một băng cassette chuyện tiếu lâm đủ cho năm năm. Có thể cái đó sẽ xua đuổi được nỗi buồn mênh mông trong vũ trụ.

- Ông sẽ cười thỏa thích suốt hành trình, – viên quản lý cam đoan.

Khi băng cassette hết có thể đặt tiếp băng khác. Yêu cầu sơn bánh lái màu đỏ. Còn về phần bộ óc điện tử thì còn phải nghĩ đã.

Đọc Brizard đến nửa đêm. Hay là mình đi săn con thú đó nhỉ?

22 tháng VIII. Rút cuộc cũng mua bộ óc điện tử. Yêu cầu lắp nó vào thành tàu. Viên quản lý cho thêm một chiếc lò sưởi điện nữa. Chắc là hắn đã lột được của mình khá đây! Hắn còn nói xưng xưng là mình sẽ tiết kiệm được khối tiền. Vấn đề là khi đậu xuống một hành tinh nào đó phải trả thuế nhập cảnh. Còn nếu như lắp bộ óc điện tử vào, có thể để tàu ngoài không gian cho nó bay tự do quanh hành tinh như là một vệ tinh nhân tạo, thế là khỏi phải trả một xu thuế nào, quãng đường còn lại có thể đi bộ. Bộ óc sẽ tính toán các phần tử của chuyển động trong không gian và báo cho biết sau này sẽ tìm thấy tàu ở đâu. Đọc xong Brizard. Hầu như đã quyết định là sẽ bay tới Enteropia.

23 tháng VIII. Lấy tàu từ xưởng về. Trông rất đẹp, có điều cái bánh lái không ăn màu với các phần còn lại. Tự tay sơn nó thành màu vàng. Trông đẹp hơn nhiều. Mượn Tarantoga cuốn Từ điển Bách khoa vũ trụ, vần "E", chép lại phần nói về hành tinh Enteropia. Nguyên văn như sau:

"Enteropia. Hành tinh thứ sáu của một mặt trời đôi (đỏ và xanh lục) trong chòm sao Kim Ngưu. Có tám lục địa, hai đại dương, 167 núi lửa đương hoạt động, 1 torg (xem: Torg). Một ngày đêm là 20 giờ, khí hậu ấm áp, điều kiện sinh sống, ngoại trừ mùa strum (xem: Strum) nói chung là tốt.

Cư dân:

  1. a) Người Ardrite – chủng tộc đông đảo nhất, là sinh vật có lý trí, cơ thể cấu tạo nhiều lớp trong suốt, phân nhánh lẻ đối xứng với nhau, thuộc bộ Polytheria trong lớp Luminifera của ngành Siliconoidea. Như tất cả bộ Polytheria, người Ardrite sinh sản theo chu kỳ bằng cách phân chia. Gia đình có cấu tạo theo hình cầu.

Chế độ cai trị: hệ thống thứ bậc IIB, với chế độ Trasm Penitential được thiết lập từ 340 năm trước (xem: Trasm). Nền công nghiệp phát triển cao, chủ yếu là công nghiệp thực phẩm. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu: quặng manubria lân quang, khung tim và khung xương tay chân vài chục kiểu, xương sườn đã tôi kỹ. Thủ đô: Tentotam, 1400000 dân. Các trung tâm công nghiệp chính: Haupr, Drur, Arbagellar. Nền văn hóa Luminous với các đặc điểm hình nấm, có liên quan với việc tiếp thu các di sản của nền văn minh Phytogosian đã bị người Ardrite tiêu diệt. Trong những năm gần đây đóng vai trò ngày càng lớn trong đời sống văn hóa xã hội là các Sepulki (xem: Sepulki). Tín ngưỡng: tôn giáo thống trị – Monomungism. Theo tôn giáo này thế giới do đấng Vạn năng Drum tạo ra dưới dạng Casva nguyên khai, từ đó mà tạo nên mặt trời và các hành tinh khác đứng đầu là Enteropia. Người Ardrite xây đền thờ Casva kiểu cố định hay lắp ghép. Ngoài đạo Monomungism ra còn có một vài đạo khác, trong đó quan trọng nhất là Tentortonian (xem: Tentortonian). Những người theo đạo này không tin gì cả ngoài thần Emphosis (xem: Emphosis), mà cũng không phải tất cả đều tin. Nghệ thuật: múa (trượt), kịch vô tuyến, sepulenie, kịch ngụ ngôn. Kiến trúc: do có thời kỳ strum nên là kiến trúc bơm hơi – nén bằng gum. Những ngôi nhà bằng gum hình chén cao tới 130 tầng.

Trên các mặt trăng nhân tạo, chủ yếu xây dựng các công trình hình trứng.

b). Động vật. Hệ động vật ngành Siliconoidea, những đại diện tiêu biểu: slebs, autachial denderfnifts, gruncheons, kurdli và thú tám vòi miệng loa. Trong thời gian strum cấm săn bắn loại kurdli và thú tám vòi. Đối với loài người, thịt của những con thú này không ăn được, trừ thịt kurdli (riêng ở vùng zarf; xem Zarf). Hệ động vật dưới nước là nguyên liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm. Những đại diện tiêu biểu: infernalia (guồng quay âm phủ), blitz, frinkuses và opthropularies. Một đặc điểm nữa phải kể đến của Enteropia là torg với hệ động vật và thực vật sống trong bùn của nó. Trong Thiên Hà của chúng ta, tương tự với nó duy nhất chỉ có các hii trong các khu rừng cây không hô hấp của Sao Mộc. Như các công trình nghiên cứu của trường phái giáo sư Tarantoga đã chỉ ra, sự sống trên Enteropia phát triển trong phạm vi của torg từ các vỉa chalcycladine. Do việc xây dựng ồ ạt các công trình trên đất liền cũng như dưới nước, cần phải tính đến sự hủy diệt nhanh chóng các tầng torg còn lại. Nằm trong điều khoản số 6 về việc bảo vệ các di tích lịch sử trên các hành tinh (Bộ luật Thiên hà, tập MCCC VII, phần XXXII, trang 4670), torg cần được gìn giữ; đặc biệt cấm khoan nó trong đêm.

Mọi điều viết trong mục này với tôi đều rõ cả trừ những đoạn viết về sepulki, Trasm và Strum. Than ôi, tập bách khoa toàn thư cuối cùng mới xuất bản lại chấm dứt ở mục "Nước xốt nấm", có nghĩa là không có gì cả về Trasm và strum. Mạc dù thế tôi vẫn đến chỗ Tarantoga để xem mục viết về sepulki. Chỉ thấy những thông tin ngắn ngủi:

"Sepulki – là một yếu tố đóng vai trò đáng kể trong nền văn minh của người Ardrite trên hành tinh Enteropia. Xem: Sepulkaria".

Tôi theo lời khuyên đó và đọc thấy:

- "Sepulkaria – là một cơ cấu để tiến hành sepulenie".

Tìm mục sepulenie, ở đấy ghi:

"Sepulenie – là một công việc của người Ardrite trên hành tinh Enteropia. Xem: Sepulki".

Vòng tròn đã khép lại không còn chỗ nào để mà tìm nữa.

Không đời nào tôi lại thú nhận sự ngu dốt của mình với giáo sư Tarantoga, nhưng cũng chẳng còn ai để mà hỏi cả. Thế là tôi quyết định phải bay đến Enteropia. Ba ngày nữa sẽ lên đường.

28 tháng VIII. Xuất phát lúc hai giờ, ngay sau bữa trưa, Không cầm theo cuốn sách nào cả, vì đã có bộ óc điện tử mới lắp rồi. Suốt dọc đường tới Mặt Trăng nghe toàn chuyện tiếu lâm do nó kể. Cười khá thoải mái. Sau đấy là bữa tối và ngủ.

29 tháng VIII. Có lẽ bị cảm khi bay ngang qua bóng rợp của Mặt Trăng, cứ hắt hơi hoài. Uống aspirin. Trên đường bay xuất hiện ba tàu vận tải từ Sao Diêm Vương bay về; tay thợ lái đánh điện để tôi nhường đường. Tôi điện hỏi xem họ chở hàng gì. Tưởng gì, hóa ra chỉ là loại hàng bryndasy thông thường. Theo ngay sau họ là chuyến tàu chở khách từ Sao Hỏa về chật ních người. Tôi nhìn qua cửa sổ thấy hành khách chen chúc chật lèn như nêm cối.

Chúng tôi giơ khăn vẫy nhau mãi cho đến khi mất hút mới thôi.

Lại nghe chuyến tiếu lâm đến tận bữa tối. Tuyệt vời, chỉ có cái vẫn cứ bị hắt hơi mãi.

30 tháng VIII. Tăng tốc độ. Bộ óc điện tử làm việc không chê vào đâu được. Tôi cười suýt nữa bị vỡ bụng, vì thế nên tắt nó đi hai giờ và mở lò sưởi điện. Thấy khoan khoái vô cùng. Quãng trưa bắt được tín hiệu vô tuyến điện mà Popov phát đi từ Trái Đất vào năm 1869. Thế là tôi đã bay cách Trái Đất khá xa rồi đấy.

31 tháng VIII. Mặt Trời chỉ còn là một chấm le lói đằng xa.

Trước bữa ăn di dạo một vòng quanh tàu để khỏi ngồi quá nhiều.

Nghe tiếu lâm cho đến tối. Phần lớn là những giai thoại có liên quan đến bộ râu. Theo tôi, tay quản lý xưởng máy đã để cho bộ óc điện tử đọc các tạp chí hài hước cũ, rồi sau đó thêm dấm ớt vào cho mới. Tôi quên mất món khoai tây để trên lò phản ứng nguyên tử – cháy ráo cả.

32 tháng VIII. Do tốc độ lớn nên thời gian bị kéo dài ra – phải tháng chín rồi mà ở chỗ tôi đây vẫn là tháng tám mãi. Có cái gì bắt đầu thấp thoáng ngoài cửa sổ. Cứ nghĩ là đã đến dải Ngân Hà rồi, nào ngờ đấy chỉ là lớp sơn đang bị tróc ra. Bọn ăn gian làm dối đáng nguyền rủa! Ngay trên đường bay có một trạm phục vụ. Nghĩ xem có nên dừng ở đó không.

33 tháng VIII. Vẫn tháng tám. Đến trạm phục vụ sau bữa ăn trưa. Nó nằm trên một hành tinh bé nhỏ và hoàn toàn vắng vẻ. Gian nhà trông như đã chết, xung quanh không một bóng người.

Tôi xách theo chiếc thùng thử đi kiếm xem ở đấy có loại sơn nào chăng. Đi mãi cho đến khi nghe có tiếng xì xì. Trông lên thấy đằng sau nhà có mấy chiếc máy hơi nước đang đứng nói chuyện!

Một chiếc nói:

- Rõ quá rồi còn gì. Mây đen là dạng tồn tại ở thế giới bên kia của các máy hơi nước. Dĩ nhiên cần phải làm rõ vấn đề – cái gì có trước – máy hơi nước hay hơi nước? Tôi khẳng định là hơi nước!

- Câm đi, đồ duy tâm đáng nguyền rủa kia! – Chiếc máy khác rít lên.

Tôi định hỏi xin chúng ít sơn, nhưng chúng xì xì và rít lên như còi làm tôi không nghe thấy cả tiếng mình nữa. Tôi ghi vào sổ góp ý rồi lại bay tiếp.

34 tháng VIII. Chẳng lẽ cái tháng tám này không có lúc kết thúc sao? Cọ rửa tàu đến tận trưa. Một công việc chán kinh khủng. Chui vội vào trong tàu đến chỗ bộ óc điện tử. Đáng ra phải cười thì lại bắt đầu ngáp dài đến nỗi phát lo cho cái quai hàm của mình.

Phía bên phải tàu có một hành tinh nhỏ bé. Khi bay ngang qua nó, tôi nhận thấy có những chấm trắng gì đó. Nhìn qua ống nhòm thì thấy đó là những tấm biển với hàng chữ: "Không thò đầu ra ngoài".

Bộ óc bị trục trặc ở chỗ nào đó – nó nuốt tất cả dấu chấm phẩy.

1 tháng X. Buộc phải đỗ lại trên hành tinh Stroglon: hết nhiên liệu. Khi phanh tàu lại, tiện đà vọt qua luôn cả tháng chín.

Sân bay vũ trụ rất náo nhiệt. Đỗ tàu trên không để khỏi phải trả thuế, chỉ mang theo thùng đựng nhiên liệu. Trước đó đã cùng với bộ óc tính toán tọa độ của quỹ đạo hình elip. Một giờ sau quay lại với thùng nhiên liệu đã lấy đầy thì không còn thấy một dấu vết nào của con tàu nữa cả. Tất nhiên là phải đi tìm nó rồi. Đã nghĩ đến chết mất thôi: phải đi bộ gần bốn nghìn kilômet. Hừm, tất nhiên là do bộ óc lẫn rồi. Khi nào trở về phải nói cho tay quản lý xưởng máy một trận mới được.

2 tháng X. Tốc độ tàu lớn đến nỗi các ngôi sao biến thành những vệt lửa như có ai đó hoa hoa hàng triệu điếu thuốc lá đang cháy trong một căn phòng tối. Bộ óc bỗng sinh chứng nói lắp. Tệ nhất là cái công tắc lại gẫy, nên không thể tắt nó đi được. Nó cứ liến thoắng không ngừng.

3 tháng X. Qua các dấu hiệu có thể dự đoán là bộ óc đang suy kiệt – giờ nó chỉ lắp bắp từng vần rời rạc. Tôi dần dần cũng quen với điều đó. Cố gắng ngồi thật lâu ở phía ngoài tàu, chỉ đút chân vào trong thôi: trời hơi lạnh.

7 tháng X. Mười một rưỡi trưa thì đến ga biên cảnh của Enteropia. Khi giảm tốc, tàu bị nóng cháy lên rất dữ. Đỗ tàu ở sân ga trên mặt trăng nhân tạo (nhà ga dựng ở đấy) và đi xuống tầng dưới để làm các thủ tục. Trong dẫy hành lang hình xoáy trôn ốc là cả một đám đông ồn ào náo nhiệt; những sinh vật từ những hành tinh xa xôi nhất của Thiên hà tới đây, họ đi đi lại lại, chen lấn nhau, nhảy từ ô cửa sổ này tới ô cửa sổ khác. Tôi đứng vào hàng sau một người Algolian da xanh biếc, anh ta bằng một cử chỉ lịch sự báo cho tôi biết chớ có đứng quá gần bộ phận tích điện ở sau mông anh ta. Đứng ngay sau tôi là một người Sao Thổ trẻ tuổi trong bộ quần áo đi đường màu ghi. Anh ta dùng ba vòi tay xách những chiếc vali, còn vòi thứ tư thì lau mồ hôi. Quả thật trời rất nóng.

Khi đến lượt tôi, tay nhân viên người Ardrite trong suốt như pha lê ngắm nhìn tôi chăm chú; rồi người anh ta trở nên xanh ngắt (người Ardrite biểu lộ tình cảm bằng cách thay đổi màu sắc, màu xanh lá cây tương ứng với nụ cười) và hỏi tôi:

- Ông là động vật có xương sống?

- Vâng.

- Lưỡng cư?

- Không, chỉ thở bằng không khí thôi.

- Tốt lắm, cám ơn ông. Ông ăn tạp chứ?

- Vâng.

- Xin ông cho biết là từ hành tinh nào tới?

- Từ Trái Đất.

- Xin mời ông sang ô cửa bên cạnh.

Tôi lại chỗ ô cửa bên cạnh, ngó vào trong; và tôi đoán chắc là trước mặt tôi vẫn chỉ là người nhân viên đó thôi, đúng hơn là nửa khác của anh ta. Anh ta lật giở một cuốn sổ lớn.

- À, đây rồi, – anh ta nói. Trái Đất... Hừm, tốt lắm. Ông đến chỗ chúng tôi du lịch hay buôn bán?

- Du lịch.

- Thế thì xin mời ông...

Một chiếc vòi tay anh ta viết vào một tờ khai, đồng thời chiếc khác chìa ra cho tôi một tờ khai khác để lấy chữ ký và thông báo:

- Một tuần lễ nữa sẽ bắt đầu thời kỳ strum. Vì thế xin mời ông quá bộ tới phòng một trăm mười sáu, đó là phòng lấy phiên bản dự trữ của chúng tôi, họ sẽ làm việc với ông. Sau đó xin mời tới phòng sáu mươi bảy, đó là phòng thuốc của chúng tôi. Ở đó ông sẽ được phát những viên thuốc Eufruglium mà cứ ba giờ ông phải uống một lần để phòng tác hại của độ phóng xạ trên hành tinh chúng tôi đối với cơ thể ông... Trong thời gian ở thăm Enteropia, ông có muốn làm cho người phát sáng không?

- Cám ơn ông, không.

- Tùy ý ông thôi. Giấy tờ của ông đây, xin mời. Ông thuộc ngành động vật có vú phải không?

- Vâng.

- Thế thì xin chúc ông bú sữa ngon lành.

Chia tay với người nhân viên niềm nở, theo sự chỉ dẫn của anh ta, tôi tới phòng dự trữ phiên bản. Căn phòng hình trứng thoạt nhìn như không có ai. Ở đây, chỉ có vài chiếc máy điện, một cây đèn pha lê lấp lánh dưới trần nhà. Hóa ra đó chính là một nhân viên kỹ thuật thường trực người Ardrite, anh ta lập tức tụt từ trên trần xuống. Tôi ngồi vào ghế bành, anh ta vừa nói chuyện cho tôi khỏi sợ vừa làm các xét nghiệm cần thiết, sau đó anh ta nói:

- Xin cám ơn ông, thận của ông chúng tôi sẽ đưa đi khắp các lò nuôi cấy trên hành tinh. Nếu có điều gì xảy ra với ông trong thời kỳ strum, ông có thể hoàn toàn yên tâm... Chúng tôi sẽ ngay lập tức đưa phiên bản dự trữ đến!

Tôi không hiểu rõ anh ta ngụ ý tới chuyện gì, nhưng kinh nghiệm nhiều năm du lịch dạy tôi biết kiềm chế: đối với cư dân một hành tinh, không có gì khó chịu hơn là phải giải thích với người xứ lạ về các tập quán và phong tục địa phương. Tới phòng thuốc tôi đứng xếp hàng nhưng hàng người dịch chuyển rất nhanh, vì thế chẳng mấy chốc một cô Ardrite trong cái chao đèn sứ nhanh nhảu phát cho tôi cả một nắm những viên thuốc. Thêm một vài thủ tục hải quan nho nhỏ nữa (tôi đã hết hy vọng vào bộ óc điện tử), và với hộ chiếu trong tay tôi quay trở lại sân ga.

Vệ tinh nhân tạo nằm ngay đầu một tuyến giao thông vũ trụ được trang bị khá hiện đại với các hàng chữ quảng cáo lớn chạy dọc hai bên. Các chữ cái cách xa nhau hàng nghìn kilômet sao cho khi đi với tốc độ bình thường chúng sẽ nhanh chóng kết hợp với nhau thành các từ giống như là được in trên báo vậy. Suốt một quãng đường tôi chăm chú đọc – thí dụ: "Các bạn đi săn chỉ được sử dụng thứ thuốc MLIN thôi!", hay là "Nếu bạn muốn vui vẻ, hãy đi săn thú tám vòi!", vân vân...

Bảy giờ tối, tôi đỗ xuống sân bay vũ trụ Tentotam. Vầng mặt trời xanh vừa mới lặn. Trong ánh nắng của vầng mặt trời đỏ hãy còn tít trên cao, cảnh vật xung quanh như cháy rực – một cảnh tượng thật kỳ lạ. Một con tàu chở khách xuyên Thiên hà đường bệ hạ xuống ngay cạnh con tàu của tôi. Cảnh gặp gỡ cảm động diễn ra ở phía đuôi tàu. Những người Ardrite sau nhiều tháng xa cách thốt ra những tiếng mừng rỡ ngã vào vòng tay của nhau, rồi thì cả nhà bố mẹ con cái âu yếm hòa lẫn với nhau thành khối cầu gia đình vội vã lăn về phía cửa, trông lấp lánh tuyệt đẹp dưới ánh nắng mặt trời. Tôi cũng bám theo những gia đình hòa hợp vui vẻ đang lăn đi ấy; ngay cổng phi trường là bến xe glambus. Tôi ngồi vào đó. Chiếc xe này với những chữ cái vàng chóe ở phía trên tạo thành dòng chữ:

"Thuốc bột Raus tự mình đi săn", trông giống như một miếng phó mát Thụy Sĩ mà trong các lỗ to là người lớn ngồi, còn trong các lỗ nhỏ là bọn trẻ con. Tôi vừa ngồi vào thì xe chuyển bánh. Chiếc xe được bao bọc bởi những vách pha lê trong suốt mềm mại, tôi nhìn quanh trên đầu, dưới chân chỗ nào cũng thấy bóng dáng của các hành khách lấp lánh bừng sáng muôn màu rất vui mắt. Tôi thò tay vào túi định tìm cuốn sách của Baedeker, đây là lúc thích hợp nhất để đọc các lời giáo huấn của ông. Nỗi ngạc nhiên của tôi thực không có giới hạn khi tôi thấy trong tay tôi lại là cuốn sách hướng dẫn du lịch trên hành tinh Enteropia cách hành tinh tôi đương ở ba triệu năm ánh sáng1. Cái nhà ông Baedeker cần thiết thì lại quên ở nhà mất rồi. Cái tính đãng trí thật đáng nguyền rủa.

Không còn cách nào khác là phải tìm đến chi nhánh dịch vụ vũ trụ nổi tiếng mang tên Galax ở Tentotam này vậy. Người kiểm soát vé khi nghe tôi yêu cầu đã vui lòng dừng chuyến xe glambus lại, giơ vòi chỉ cho tôi một tòa nhà lớn và khi chào từ biệt người ông ta đổi màu một cách chân thành.

Tôi đứng ngây như tượng đến vài phút thưởng thức cảnh tượng kỳ lạ của khu trung tâm thành phố khi hoàng hôn xuống.

Vầng mặt trời đỏ vừa mới khuất sau chân trời. Những người Ardrite không sử dụng các nguồn sáng nhân tạo bởi vì tự nó đã phát sáng rồi. Đường Mrut nơi tôi đứng đông nghịt những người thân hình lấp lánh qua lại: một thiếu nữ Ardrite đi ngang qua chỗ tôi tinh nghịch lóe lên những vật vàng chói phía trong tấm chao của cô, song hình như nhận ra tôi là người xứ lạ, cô xấu hổ vội tắt chúng đi.

Những ngôi nhà xa cũng như gần lấp lánh, được chiếu rọi rực rỡ bởi những người đã trở về nhà; sâu trong hậu cung các ngôi đền, các đám đông tín đồ đương cầu nguyện cũng phát sáng; bọn trẻ con loang loáng đủ bảy sắc cầu vồng chạy trong những lồng cầu thang – tất cả những cảnh đó thật tuyệt vời, thật sinh động khiến tôi không muốn rời đi. Rất tiếc là tôi buộc phải vội vì sợ chi nhánh Galax đóng cửa.

Tại phòng đợi của công ty du lịch, người ta chỉ cho tôi lên tầng thứ hai mươi ba, tới phòng phụ trách các khu vực ngoại vi.

Than ôi, thật cay đắng nhưng đây là một sự thật không thể chối cãi được: Trái Đất nằm ở một khu vực hẻo lánh ít người biết đến của vũ trụ!

Người nữ nhân viên của phòng dịch vụ du lịch khi nghe tôi yêu cầu bỗng bối rối đến nỗi mờ hẳn đi và trả lời rất tiếc Galax không có cả sách hướng dẫn lẫn sổ tay cẩm nang du lịch cho khách từ Trái Đất tới, bởi vì hàng trăm năm mới có một người đến thăm Enteropia. Xét việc Sao Mộc và Trái Đất có chung nguồn gốc Mặt Trời, cô ta đề nghị tôi dùng tạm cuốn cẩm nang cho người Sao Mộc.

Vì không có cách nào khác hơn, tôi đành cầm lấy nó và yêu cầu đặt cho tôi một phòng trong khách sạn "Cosmonia". Tôi cũng ghi tên tham gia cuộc đi săn do Galax tổ chức, sau đó đi dạo lang thang trong thành phố. Việc người tôi không tự phát sáng hóa ra rất bất tiện, tôi cứ phải dừng lại ở các ngã tư gần những người Ardrite làm nhiệm vụ điều khiển giao thông và nhờ ánh sáng của họ để đọc cuốn cẩm nang mới mua. Đúng như tôi dự đoán, nội dung của nó toàn là: ở đâu có thể có được các thực phẩm chế từ methane; phải sử dụng các vòi như thế nào trong các buổi tiếp tân long trọng, vân vân... Tôi vứt luôn cuốn cẩm nang vào thùng đựng rác, vẫy một chiếc xe eboret chạy ngang qua và bảo chở tới khu nhà gum.

Những công trình xây dựng tuyệt vời hình chén ấy từ xa đã thấy nhấp nháy những ngọn lửa muôn màu của những người Ardrite đương sung sướng hưởng thú vui của đời sống gia đình, còn trong các tòa nhà công sở lấp lánh những chuỗi ngọc rực sáng đẹp mê hồn của dòng các viên chức.

Chiếc xe eboret đi rồi, tôi còn dạo một lát nữa.

Khi tôi đang đứng thán phục trước tòa nhà gum – tổng cục Zup – cao ngất trên quảng trường, thì có hai viên chức cao cấp ở trong bước ra, có thể nhận ngay ra chức vụ của họ qua cường độ phát sáng và lớp răng cưa đỏ viền xung quanh chao của họ. Họ dừng lại cách tôi không xa và tôi nghe được câu chuyện của họ.

- Cái việc đáng ngại ấy không nhất thiết nữa chứ? – Người cao lớn ngực đeo đầy huân chương hỏi.

Người kia trả lời, toàn thân bừng sáng:

- Không. Giám đốc nói là chúng tôi không hoàn thành kế hoạch và tất cả là do Grudrufs. Không còn cách nào khác, giám đốc nói là phải thay anh ta thôi.

- Grudrufs ấy à?

- Đúng thế.

Người thứ nhất tắt ngấm, chỉ còn những chiếc huân chương của ông ta là tiếp tục phát sáng thành một vòng hoa muôn màu rồi hạ thấp giọng, ông ta nói:

- Anh chàng khốn khổ ấy sẽ phải long đong nhiều đấy.

- Kệ cho hắn long đong, không có gì giúp hắn được nữa. Bằng không thì chẳng còn quy củ gì cả. Bao nhiêu năm nay người ta đã loại đi đủ các hạng người đâu phải để cho sepulki ngày càng phát triển hơn!

Thấy hay, tôi bất giác tiến lại gần chỗ những người Ardrite, nhưng họ im bặt và lảng đi.

Thật lạ, nhưng sau đó bên tai tôi luôn luôn vẳng lên cái từ "sepulki". Khi đi trên vỉa hè cố hòa nhập vào cuộc sống ban đêm của thủ đô, từ trong những đám đông người láo nháo, cái từ bí ẩn đó cứ đuổi theo tôi, khi thì bằng một giọng thì thầm, khi thì vang lên lảnh lót say mê; có thể đọc thấy nó trên các quả cầu quảng cáo thông báo về các cuộc bán đấu giá và đấu thầu công khai các sepulki hiếm, hoặc trên các biển quảng cáo bằng đèn nêông nhấp nháy mời chào mọi người mua các sepulkaria mốt nhất. Tôi cố đoán xem nó là thứ gì nhưng vô hiệu; cuối cùng, gần nửa đêm, khi tôi ngồi trong quán giải khát trên tầng thứ tám mươi của cửa hàng bách hóa tổng hợp, uống một cốc nước ép kurdli cho tỉnh người, nghe cô ca sĩ người Ardrite cất giọng hát bài hát thời thượng lúc đó là bài "Sepulki nhỏ bé của em", thì nỗi tò mò của tôi đã tăng lên tới mức tôi phải hỏi ngay người hầu bàn đang đi lại chỗ tôi ngồi là có thể kiếm sepulki ở đâu được.

- Cửa hàng trước mặt, – anh ta trả lời một cách lơ đãng trong khi nhận tiền. Chợt anh ta chăm chú nhìn tôi, người hơi sẫm lại. – Ông có một mình thôi à? -Anh ta hỏi.

- Vâng. Thế thì sao?

- Không. Không sao. Rất tiếc là tôi không có tiền lẻ.

Vậy là không nhận được tiền trả lại, tôi ra thang máy đi xuống dưới. Quả thật, phía trước mặt tôi nhìn thấy có một tấm biển lớn quảng cáo sepulki, tôi đẩy cánh cửa thủy tinh và bước vào bên trong một cửa hàng vắng tanh vào lúc khuya khoắt này.

Tôi bước lại chỗ quầy hàng và với một vẻ thờ ơ giả tạo cố ý, tôi hỏi mua một sepulki.

- Loại sepulki nào ạ? Người bán hàng vừa tụt từ chỗ treo mình xuống vừa hỏi.

- Hừm, loại nào à... Loại bình thường thôi, - tôi trả lời.

- Sao lại là bình thường được? - Anh ta ngạc nhiên. – Chúng tôi chỉ bán các loại sepulki có tiếng huýt gió thôi...

- Thì cho tôi một chiếc...

- Thế phu nhân của ngài đâu?

- Hừm... Tôi không đem theo...

- Làm sao ngài lại có thể mua nó khi thiếu vợ được? – Người bán hàng nói và nhìn tôi chằm chằm. Người anh ta dần dần sẫm lại.

- Tôi không có vợ, – tôi thốt lên một cách thiếu thận trọng.

- Ngài...không... Có vợ?!- Người bán hàng sầm mặt lại nói lắp bắp, anh ta nhìn tôi với vẻ hoảng sợ, – Thế mà ngài muốn mua sepulki?... Không có vợ?...

Cả người anh ta run lên bần bật. Cay đắng, tôi lao ra ngoài phố, vẫy được một chiếc eboret còn rảnh và ra lệnh đưa tôi tới một hiệu ăn nào đó. Nó chở tôi đến hiệu ăn "Myrgindragg". Tôi bước vào đúng lúc dàn nhạc ngừng chơi. Trong phòng có hơn ba trăm khách đương treo mình. Tôi lách qua đám đông vừa đi vừa ngó quanh tìm một chỗ trống. Thình lình có ai gọi tôi. Tôi sung sướng nhận ra một khuôn mặt quen thuộc. Đó là một nhà buôn mà trước đây tôi đã có dịp làm quen ở Autropia. Ông ta đang treo mình bên cạnh vợ và con gái. Tôi tự giới thiệu với bà và bắt đầu nói chuyện vui với cả nhà; họ đã ăn uống tương đối nhiều và chốc chốc lại đứng dậy để lăn trên sàn theo một điệu nhạc nhảy nào đó. Được bà vợ ông bạn khuyến khích, cuối cùng tôi cũng dũng cảm lao vào nhảy; ôm nhau thật chặt, cả bốn người chúng tôi lăn theo một điệu mamborina bốc lửa. Thành thật mà nói, cũng vài lần tôi bươu trán nhưng phải dở khóc dở cười làm ra bộ khoái trá lắm. Khi chúng tôi quay về bàn, trên đường đi tôi giữ ông bạn lại và ghé sát vào tai ông ta hỏi ông ta về sepulki.

- Xin lỗi, ông nói gì thế? – ông ta nghe không ra.

Tôi nhắc lại câu hỏi và nói thêm là tôi muốn kiếm sepulki.

Có lẽ tôi nói quá to, – những người treo ở gần đấy quay hết cả lại, mặt sa sầm nhìn tôi, còn ông người quen của tôi thì hoảng hốt chắp hai vòi lại van vỉ.

- Lạy Drum chí thánh, ông có một mình thôi mà, Ijon!

- Thì đã sao nào? – Tôi kêu to, máu đã hơi bốc lên đầu. – Chẳng lẽ vì thế tôi không được nhìn cái sepulki sao?

Những lời nói đó vang lên rành rọt trong bầu không khí đột nhiên im lặng như tờ. Bà vợ của ông bạn tôi ngất đi gục xuống sàn, ông ta vội lao lại chỗ bà ta, những người Ardrite đứng gần đó tiến lại chỗ tôi, đổi màu tỏ rõ ý thù địch; ngay lúc đó ba người hầu bàn xuất hiện, họ tóm lấy cổ áo tôi và tống tôi ra đường.

Tôi hết sức giận dữ, vẫy một chiếc eboret và yêu cầu chở tôi về khách sạn. Cả đêm tôi không sao chợp được mắt, người như có ai cào cấu. Mãi sáng ra tôi mới hiểu vì sao. Do không được Galax cung cấp những tin tức chính xác nên những người phục vụ trong khách sạn, theo những kinh nghiệm cay đắng của mình thấy có một số khách trọ vẫn thường đốt thủng cả đệm, nên đã trải giường nằm bằng tấm amiăng.

Buổi sáng trời tuyệt đẹp và những ấn tượng khó chịu của ngày hôm qua không còn làm tôi tức tối nữa. Tôi vui sướng chào đón người đại diện của công ty Galax, ông này đến chỗ tôi lúc mười giờ bằng eboret, trên xe lủng củng những gói, hộp cùng với kem bôi đi săn và cả một lô những trang bị săn bắn.

- Ông chưa bao giờ đi săn kurdli phải không? - Người dẫn đường cho tôi hỏi khi chiếc xe đã lao nhanh trên đường phố của Tentotam.

- Chưa. Ông có thể vui lòng hướng dẫn tôi được chứ? – Tôi mỉm cười đề nghị.

Với kinh nghiệm của những chuyến đi săn những con vật lớn nhất trong Thiên hà, thực ra tôi có thể cho phép mình giữ thái độ hoàn toàn thản nhiên.

- Xin sẵn lòng, – người dẫn đường lễ độ trả lời.

Đó là một người Ardrite gầy gò, nét mặt nhợt nhạt, không có chao, quấn một tấm vải xanh thẫm. Lối trang phục như thế tôi chưa gặp bao giờ trên hành tinh này. Khi tôi nói điều đó với ông ta thì được trả lời đó là bộ quần áo đi săn cần thiết phải mặc để có thể lại gần con thú; cái mà tôi cho là vải thực ra là một chất tổng hợp chuyên dụng phủ lên thân thể. Nói tóm lại, đó là thứ bộ đồ phun lên người tiện lợi, thực dụng và điều quan trọng nhất là nó hoàn toàn ngụy trang được sự phát sáng tự nhiên của người Ardrite có thể làm cho con kurdli sợ.

Người hướng dẫn lấy từ trong cặp ra một tờ giấy in sẵn đưa tôi đọc để làm quen. Tôi vẫn còn giữ tờ giấy đó trong số giấy tờ của tôi. Nội dung như sau:

 

ĐIỀU LỆ SĂN KURDLI.

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN KHÁCH TỪ XỨ KHÁC TỚI.

Kurdli, với tư cách là một giống thú có giá trị về mặt săn bắn, đòi hỏi những yêu cầu rất cao đối với phẩm chất cá nhân cũng như trang bị của người đi săn. Giống thú này, trong quá trình tiến hóa để thích nghi với những cơn mưa thiên thạch đã hình thành một lớp vỏ giáp không thể bắn thủng, vì vậy người ta săn kurdli từ trong ra.

ĐỂ SĂN KURDLI CẦN PHẢI CÓ:

  1. a) giai đoạn đầu: bôi kem da màu đất, nước chấm làm từ nấm, muối, và hạt tiêu.
  2. b) giai đoạn chủ yếu: chổi rơm, mìn hẹn giờ.
  3. Công tác chuẩn bị tại chỗ.

Người ta đi săn kurdli bằng mồi. Người đi săn trước tiên phải xoa kỹ kem bôi da màu đất lên người và ngồi xổm trên rãnh torg, sau đó người cùng đi sẽ lấy hành thái nhỏ phủ lên người anh ta và cho gia vị vừa đủ.

  1. Phải chờ kurdli trong tư thế đó. Khi nào con thú lại gần cần giữ bình tĩnh, hai tay ôm chặt trái mìn cho đến lúc bấy giờ vẫn được giữ giữa hai đầu gối. Giống kurdli đói thường nuốt mồi ngay lập tức. Nếu như kurdli không muốn ăn, để kích thích có thể vỗ nhẹ vào lưỡi nó. Trong trường hợp có nguy cơ thất bại có người khuyên nên gia thêm muối, nhưng đó lại là một biện pháp cực kỳ nguy hiểm, bởi vì kurdli có thể hắt hơi. Không mấy ai trong số người đi săn chịu nổi cái hắt hơi của giống kurdli.

III. Giống kurdli sau khi nuốt mồi thường liếm mép rồi bỏ đi.

Sau khi bị nuốt vào rồi, người đi săn không được chậm trễ phải bắt tay vào hoạt động tích cực, có nghĩa là dùng chiếc chổi phủi hết hành và gia vị trên người để kem bôi da có thể phát huy tác dụng làm yếu con thú, sau đó điều chỉnh cơ chế hẹn giờ cho trái mìn và chạy thật nhanh về hướng ngược với hướng vừa bị nuốt vào.

  1. Khi nhảy từ miệng con kurdli ra cố gắng rơi xuống bằng cả tay lẫn chân và đừng để bị bươu đầu.

Ghi chú: Cấm sử dụng các vị cay nóng. Cũng cấm cả việc đặt mìn hẹn giờ và rắc hành lên đó để lừa kurdli. Những hành động như vậy sẽ bị truy tố và trừng trị theo pháp luật như là tội săn bắn trộm muông thú.

 

Đón chúng tôi ở bìa khu rừng bảo tồn săn bắn đã có viên quản lý Wawr cùng với gia đình của ông; dưới ánh mặt trời người họ lấp lánh như pha lê. Ông có vẻ là một người rất chân tình và hiếu khách, mời chúng tôi cùng ăn trưa, và chúng tôi đã ngồi vài giờ cùng với đám vợ con dễ thương của ông, nghe những câu chuyện về đời sống của loài người, các kỷ niệm đi săn của Wawr và những người con trai của ông. Chợt một tay thợ săn thở hổn hển chạy vào báo rằng những người thợ săn đã dồn được một con kurdli vào rừng.

- Cái giống kurdli ấy, – viên quản lý giải thích với tôi, – lúc đầu phải đuổi cho nó chạy một trận đã, để cho nó đói mà!

Người bôi đầy kem, tay mang trái mìn và các gia vị, tôi cùng với nhóm Wawr và người dẫn đường đi sâu vào torg. Đám người chẳng mấy chốc đã mất hút trong một khu rừng rậm. Chúng tôi đi rất vất vả, thỉnh thoảng lại phải vòng qua những vết chân của con kurdli to như những cái ao, rộng đến năm mét đường kính.

Cuộc hành trình kéo dài rất lâu. Đột nhiên mặt đất rung lên, người dẫn đường dừng lại, giơ vòi lên ra hiệu cho mọi người im lặng. Có những tiếng ầm ầm, dường như đâu đó phía chân trời bão táp đương nổi lên.

- Nghe thấy không? – người dẫn đường thì thầm.

- Có. Kurdli đấy à?

- Phải. Nó gầm đấy.

Chúng tôi giờ di chuyển chậm chạp và thận trọng hơn. Tiếng ầm ầm đã dịu đi và torg chìm vào im lặng. Cuối cùng, giữa các đám bụi cây chợt xuất hiện một bãi trống rất rộng. Dừng lại bên rìa bãi trống đó, những người bạn đồng hành của tôi tìm một chỗ thuận tiện rắc gia vị lên người tôi và, khi đã tin chắc là cái chổi và trái mìn của tôi đã sẵn sàng đâu vào đó rồi, họ rón rén lánh đi ra sau khi khuyên tôi cố giữ bình tĩnh. Một lúc lâu sự yên tĩnh chỉ bị khuấy động bởi tiếng nhai sột soạt của lũ thú tám vòi; chân của tôi hầu như tê dại. Thình lình mặt đất lại rung chuyển. Tít đằng xa tôi nhận thấy có vật gì đó đang chuyển động – ngọn các cây ở mép khoảng rừng trống nghiêng ngả và đổ rạp đánh dấu đường đi của con thú. Chắc chắn phải là một con thú lớn ra trò. Chẳng bao lâu con kurdli ló đầu ra bãi trống, bước qua các thân cây đổ và tiến về phía trước. Nó bước đi hùng dũng, khịt mũi ầm ĩ, tiến lại phía tôi. Hai tay ôm chặt lấy trái mìn đầy mấu, tôi thản nhiên chờ đợi. Con kurdli dừng lại cách tôi khoảng năm mươi mét và liếm mép. Qua lớp da thịt trong suốt của nó, tôi nhìn thấy bên trong hài cốt của những người đi săn không gặp may.

Con kurdli còn đứng tần ngần một lúc. Tôi đã bắt đầu sợ nó bỏ đi, thì con thú chợt lại gần và liếm tôi. Tôi chỉ nghe thấy một tiếng tợp mạnh rồi mặt đất như chuồi đi dưới chân.

"Trúng rồi!" – Tôi tự nhủ. Trong bụng con kurdli không quá tối như cảm giác lúc ban đầu của tôi. Sau khi phủi người, tôi nhấc trái mìn nặng trĩu lên và bắt đầu vặn kíp hẹn giờ, thì có tiếng ai ho khe khẽ vẳng đến tai tôi. Tôi ngẩng đầu lên và ngạc nhiên thấy trước mặt mình là một người Ardrite không quen biết cũng như tôi đang cúi xuống một trái mìn. Trong khoảnh khắc chúng tôi nhìn nhau.

- Ông làm gì ở đây thế? – Tôi hỏi.

- Săn kurdli, – ông ta trả lời.

- Tôi cũng vậy, – tôi nói. – Nhưng xin ông đừng chú ý tới tôi. Ông là người vào đây trước mà.

- Không thể thế được, – ông ta phản đối. – Ông là khách mà.

- Thế thì sao nào? – Tôi phản đối. – Tôi sẽ để trái mìn của tôi lại khi khác. Xin mời ông! Ông đừng ngại khi tôi có mặt ở đây.

- Không đời nào! – Ông ta kêu lên. – Ông là khách của chúng tôi.

- Trước hết tôi là một người đi săn.

- Còn tôi trước hết là chủ nhà và không thể để ông vì tôi mà lại phải từ bỏ con kurdli này. Rất mong ông nhanh nhanh lên cho, kem bôi da bắt đầu có tác dụng rồi đấy.

Quả thật con kurdli bắt đầu nhớn nhác: thậm chí ở trong bụng còn nghe rõ tiếng nó thở phì phò, cứ như là có đến mười cái đầu tàu đang cùng phì hơi một lúc. Khi thấy rằng không thể thuyết phục được ông bạn Ardrite gặp ở đây, tôi vặn kíp mìn và đợi bạn mới, song ông này lại còn nài tôi ra trước. Chúng tôi nhanh chóng rời khỏi con kurdli. Khi rơi từ độ cao bằng tòa nhà hai tầng xuống, tôi hơi bị giập đầu gối. Con kurdli rõ ràng là thấy nhẹ bụng, nó cắm đầu chạy vào trong rừng làm cây cối ở đó đổ rầm rầm nghe lộng óc. Cuối cùng một tiếng sấm động khủng khiếp vang lên rồi mọi vật lặng đi.

- Xong rồi! Xin thật lòng chúc mừng ông, – người đi săn kêu lên và xiết chặt tay tôi.

Đúng lúc đó người dẫn đường và viên quản lý khu rừng săn đi lại.

Vì trời đã tối, cần phải về thành phố cho nhanh, viên quản lý hứa với tôi là tự tay ông ta sẽ nhồi rơm con kurdli và gửi nó về Trái Đất bằng chuyến tàu vận tải sớm nhất.

5 tháng XI. Bốn ngày rồi không ghi một dòng nào – bận kinh khủng.

Các buổi sáng – tiếp đại diện của Hội liên lạc văn hóa vũ trụ, viện bảo tàng, phòng triển lãm, kịch vô tuyến, còn buổi chiều thì đi thăm hỏi, dự các buổi tiếp đón long trọng, phát biểu ý kiến. Đã cảm thấy mệt mỏi lắm rồi. Đại diện của Hội liên lạc văn hóa vũ trụ bảo trợ cho tôi hôm qua có nói với tôi là thời kỳ strum sắp đến rồi, thế mà tôi quên hỏi ông ta xem đó là cái gì. Lại còn phải đi gặp giáo sư Zazul, nhà bác học nổi tiếng người Ardrite, nhưng chẳng biết khi nào mới đi được.

6 tháng XI. Buổi sáng đang ở trong khách sạn thì bị đánh thức những tiếng ầm ầm khủng khiếp. Tôi nhảy khỏi giường và nhìn thấy những cột khói và lửa cuồn cuộn bốc lên trên thành phố.

Vội gọi điện thoại cho phòng chỉ dẫn của khách sạn và hỏi xem có việc gì xảy ra.

- Không có gì đặc biệt cả, – cô nhân viên điện thoại trả lời. – Đừng lo, đó là strum2 đấy mà.

- Strum?

- Dòng thiên thạch hỗn loạn mà cứ mười tháng một chúng tôi lại va chạm với nó một lần.

- Thế thì thật là khủng khiếp! – Tôi kêu lên. – Có lẽ nên ra hầm trú ẩn chăng?!

- Ồ, chẳng có hầm nào chịu được thiên thạch rơi vào đâu. Nhưng ông, cũng như những công dân khác, đã có phiên bản dự trữ, ông không cần phải lo lắng.

- Lại còn phiên bản nào nữa? – Tôi hỏi, song cô ta đã gác máy.

Tôi vội vàng mặc quần áo và đi ra phố. Mọi hoạt động ngoài phố vẫn bình thường; mọi người vẫn vội vã đi lo việc của mình, các quan chức sáng lóe những huân chương đủ màu sắc vẫn ngồi xe đến công sở, trong các vườn trẻ bọn trẻ vẫn nô đùa, nháy sáng và hát hò. Những tiếng nổ trở nên thưa thớt hơn, chỉ còn vẳng lại từ nơi xa tiếng ầm ì đều đều. Tôi nghĩ bụng có lẽ strum không phải là một hiện tượng nguy hiểm lắm bởi vì không ai chú ý tới nó cả, và thế là theo kế hoạch đã định trước tôi lên xe đi đến vườn bách thú.

Đích thân ông giám đốc, một người Ardrite gầy gò nóng nảy nhưng có ánh sáng đẹp, đưa tôi đi tham quan. Vườn thú Etoham được bảo quản rất tuyệt vời; ông giám đốc tự hào cho tôi biết là ông có cả một bộ sưu tập muông thú từ những xứ hẻo lánh nhất của thiên hà, trong đó có cả những giống vật của Trái Đất. Cảm động, tôi ngỏ ý muốn xem chúng.

- Rất tiếc, giờ thì không thể được, – ông giám đốc trả lời, và khi bắt gặp ánh mắt nghi ngờ của tôi, liền thêm: – Ông biết đấy, ở chỗ chúng tôi việc thích nghi với khí hậu rất khó khăn, và tôi đã sợ không con nào sống nổi, may mà chế độ ăn kiêng hoàn toàn bằng vitamin do các nhà bác học của chúng tôi đề ra đã đưa lại những kết quả tuyệt diệu.

- À, ra thế. Nhưng đó là giống vật gì vậy?

- Giống ruồi. Ông có thích kurdli không?

Ông ta nhìn tôi, khẩn khoản chờ đợi, vì thế tôi cố trả lời bằng một giọng nhiệt tình thành thật:

- Ồ, rất thích, thật là một giống vật hiền lành đáng yêu!

Ông ta rạng rỡ hẳn lên:

- Tốt quá, chúng ta đến chỗ chúng đi, nhưng xin lỗi, ông hẵng đợi cho một phút đã.

Ông ta quay trở lại với cuộn dây thừng trên vai và dẫn tôi đến khu chuồng kurdli được bao quanh bằng các bức tường cao chín mươi mét. Mở cửa, để tôi vào vào trước.

- Ông có thể yên tâm, – ông ta nói, những con kurdli của tôi hoàn toàn thuần tính.

Tôi lọt vào một khu torg nhân tạo. Ở đây người ta thả chừng sáu hay bảy con kurdli: những cá thể được chọn lựa cẩn thận to gần ba hecta. Nghe tiếng ông giám đốc, con lớn nhất tiến lại phía chúng tôi và chìa đuôi ra. Ông giám đốc leo lên cái đuôi và ra hiệu cho tôi làm theo. Khi độ dốc trở nên quá lớn, ông giám đốc tháo cuộn dây thừng ra và đưa cho tôi một đầu để tôi buộc vào người. Buộc chằng người với nhau, chúng tôi leo chừng hai tiếng.

Tới đỉnh lưng con kurdli, ông giám đốc lặng lẽ ngồi xuống, trông xúc động ra mặt. Trân trọng tình cảm của ông, tôi không dám quấy rối bầu không khí im lặng. Một lúc sau ông nói:

- Cảnh đẹp tuyệt vời, phải không ông?

Quả thật, dưới chân chúng tôi trải rộng toàn cảnh thành phố Tentotam với các đỉnh tháp, chùa chiền, những ngôi nhà gum; người đi trên các phố trông bé xíu như đàn kiến đang bò.

- Ông rất gắn bó với những con kurdli thì phải? – Tôi khẽ hỏi, đưa mắt nhìn ông đang lấy tay xoa xoa lưng con vật ngay chỗ gồ lên cao nhất.

- Tôi yêu chúng, – ông nói một cách giản dị và nhìn thẳng vào mắt tôi. Đó là vì những con kurdli chính là cái nôi của nền văn minh của chúng tôi, ông nói thêm.

Trầm ngâm một lát, ông giám đốc nói tiếp:

- Hồi xa xưa, cách đây hàng nghìn năm, chúng tôi đã làm gì có thành phố, những ngôi nhà tuyệt vời, nền kỹ thuật, phiên bản dự trữ... Thời đó, chính những sinh vật tốt bụng có sức mạnh tuyệt luân này đã che chở cho chúng tôi, cứu chúng tôi trong các thời kỳ strum khổ ải. Không có loài kurdli thì không một người Ardrite nào có thể sống sót tới ngày hạnh phúc hôm nay, thế mà bây giờ họ săn bắn chúng, tiêu diệt chúng, làm hại chúng – một sự vô ơn thậm tệ, quá quắt!

Tôi không dám ngắt lời ông. Vài giây sau, cố nén xúc động ông lại cất tiếng:

- Sao mà tôi căm ghét cái bọn người đi săn ấy thế, cái bọn ăn cháo đái bát ấy! Ông có lẽ cũng đã thấy những biển quảng cáo kem bôi săn rồi, có phải không?

- Vâng.

Xấu hổ chín người vì những lời nói của ông giám đốc, tôi run sợ trước ý nghĩ: nhỡ ông ta biết về cái hành động mới đây của tôi, rằng chính tay tôi đã giết chết một con kurdli. Cố lái ông giám đốc khỏi cái đề tài tế nhị ấy, tôi hỏi:

- Quả là các ông phải mang ơn chúng nhiều thế ư? Tôi không biết chuyện...

- Sao ông lại không biết nhỉ? Những con kurdli đã mang chúng tôi trong bụng hai mươi nghìn năm. Sống trong đó, được vỏ giáp chắc chắn của chúng che chở khỏi các cơn mưa thiên thạch chết người, tổ tiên của chúng tôi đã trở thành những người như chúng tôi ngày nay: những sinh vật có lí trí tuyệt vời, tỏa sáng trong đêm tối. Ông không biết gì về chuyện đó sao?

- Tôi ở xứ khác đến... – tôi lắm bắp, trong thâm tâm thề rằng sẽ không bao giờ làm điều gì có hại cho loài kurdli nữa.

- À, vâng, vâng... – ông giám đốc trả lời, và không nghe tôi nói, ông đứng lên. Rất tiếc là tôi phải về, công việc đang đợi tôi.

Ở vườn bách thú ra, tôi ngồi eboret đi đến Galax, ở đấy người ta phải dành vé cho tôi xem buổi diễn ban ngày.

Ở trung tâm thành phố lại bắt đầu nghe thấy những tiếng sấm rền, mỗi lúc một mạnh và to hơn. Trên các mái nhà bốc lên những cột khói lửa. Thấy không ai trong số người đi đường mảy may chú ý tới chuyện đó, tôi cũng im lặng. Cuối cùng chiếc eboret dừng lại trước cửa Galax. Người thường trực hỏi tôi có thích vườn bách thú không.

- Rất, rất thú vị, – tôi đáp, – nhưng... trời... ơi!

Tòa nhà Galax nhảy dựng lên. Hai dãy nhà trị sự phía ngoài cửa sổ nhìn rõ như lòng bàn tay, tan ra từng mảng bởi một tảng thiên thạch rơi đúng vào. Tôi ù cả tai và bắn tung vào tường.

- Cái đó không đáng sợ. – Người thường trực nói. – ở chơi chỗ chúng tôi thêm ít nữa, ông sẽ quen thôi. Xin mời, vé của ông...

Anh ta không kịp nói hết câu. Chớp lửa, tiếng đổ rầm, một đám bụi, và khi chúng tan đi, ở chỗ người vừa nói chuyện với tôi, tôi thấy một cái hố sâu trên sàn. Tôi đứng ngây người như hóa đá.

Chưa đầy một phút sau, có vài người Ardrite mặc quần áo bảo hộ lao động đến vá lại lỗ thủng và kéo một chiếc xe đẩy trên có một bọc lớn. Khi họ mở bọc ra, trước mắt tôi lại là người thường trực với chiếc vé trong tay. Anh ta giũ những mảnh giấy gói còn vương trên người, lại leo lên giá treo, nói:

- Vé của ông đây. Tôi đã nói với ông là không có gì đáng sợ cả mà. Mọi người chúng tôi đều đã được sao lại đề phòng trường hợp cần thiết. Sự bình thản của tôi làm ông ngạc nhiên ư? Nhưng những chuyện như thế này đã kéo dài hàng ba mươi ngàn năm nay rồi, chúng tôi đã quen... Nếu ông muốn dùng cơm trưa, khách sạn Galax đã mở cửa. Tầng dưới, bên cửa ra vào.

- Cám ơn, tôi không thấy đói, – tôi đáp và hơi loạng choạng bước ra giữa những tiếng nổ ầm ầm không ngớt. Một cơn cáu giận đột ngột xâm chiếm lấy tôi.

"Không được để cho họ thấy người Trái Đất run sợ",- tôi nghĩ, rồi liếc nhìn đồng hồ, ra lệnh chở tôi đến nhà hát.

Trên đường đi, một mảnh thiên thạch phá tan chiếc eboret, tôi ngồi sang chiếc khác. Ngay ở chỗ hôm qua còn là nhà hát, một đống đồ nát ngổn ngang đương bốc khói.

- Các ông sẽ hoàn lại tiền vé chứ? – Tôi hỏi người bán vé đưng đứng ở hè phố.

- Không. Vở diễn vẫn tiến hành bình thường.

- Bình thường là thế nào? Rõ ràng thiên thạch...

- Còn hai mươi phút nữa mới bắt đầu cơ mà.

- Nhưng...

- Xin ông làm ơn tránh ra khỏi cửa bán vé được không?

- Chúng tôi muốn mua vé! Hàng người sau lưng tôi xôn xao.

Nhún vai, tôi tránh ra. Hai chiếc xe tải lớn trong thời gian đó đã chất đầy những mảnh vỡ và chở chúng đi đâu đó. Vài phút sau bãi đất đã được dọn sạch.

- Thế nào, buổi diễn sẽ tiến hành ngoài trời à? – Tôi hỏi một số khán giả đang đứng chờ, tay phe phẩy tờ chương trình.

- Không có chuyện ấy đâu; tôi nghĩ mọi chuyện sẽ bình thường cả thôi.

Giận dữ, tôi im bặt, nghĩ rằng anh ta đùa tôi.

Một chiếc xe téc lớn chạy đến bãi đất. Từ trong bụng nó, một dòng chất lỏng tổng hợp dính như keo lấp lánh màu hồng ngọc tuôn ra thành một đống lớn; người ta dúi một đầu ống vào cái đống "cháo đặc" còn đương nghi ngút khói ấy và bắt đầu bơm không khí.

Đống cháo biến thành một cái bong bóng, lớn nhanh đến chóng mặt. Phút sau nó đã trở thành phiên bản giống hệt tòa nhà hát, chỉ có cái hãy còn mềm, đung đưa trước gió. Năm phút sau ngôi nhà vừa mới được thổi lên đó đã cứng lại; đúng lúc ấy thiên thạch lại phá tan một phần mái. Người ta thổi cái mái mới, và dòng khán giả lập tức ùa vào qua cánh cửa mở rộng. Ngồi vào ghế của mình, tôi thấy nó hãy còn ấm và đó là bằng chứng duy nhất về tai họa vừa xảy ra. Tôi hỏi người ngồi bên cạnh xem cái chất dẻo dùng để thổi nên tòa nhà là chất gì, và được biết đó là chất gum nổi tiếng của người Ardrite.

Vở diễn bắt đầu chậm mất một phút. Sau tiếng cồng, rạp hát tối lại và trở nên giống như một cái bếp than đầy những hòn than le lói, còn các diễn viên thì lại sáng chói lên rất đẹp. Họ diễn một vở kịch lịch sử tượng trưng, và thành thật mà nói, tôi không hiểu gì mấy, hơn nữa phần lớn các cảnh lại là ngôi đền; một tốp thiếu nữ Ardrite trẻ trung dâng hoa lên đức Drum và hát về những chàng trai yêu dấu của lòng mình.

Bất chợt xuất hiện viên tư tế màu hổ phách, ông ta đuổi tất cả các thiếu nữ đi, chừa lại mỗi một cô đẹp nhất, trong suốt như nước nguồn. Viên tư tế giam cô ta vào bên trong bức tượng. Người nữ tù nhân cất giọng hát gọi người yêu mình đến, anh ta chạy lại và dập tắt lão già. Đúng lúc đó một viên thiên thạch xuyên thủng trần, phá nát một phần phông màn và giết chết cô thiếu nữ đang yêu, nhưng từ bục nhắc vở người ta đưa ngay phiên bản dự trữ của cô ta ra, rất khéo, khiến ai trong số khán giả lúc đó mà có ho hay chớp mắt thì không nhận thấy gì cả. Vở kịch tiếp tục, đôi trai gái quyết định lập gia đình. Cuối màn viên tư tế bị ném xuống vực.

Sau giờ nghỉ, khi màn lại được kéo lên, tôi thấy một quả cầu rất đẹp gồm đôi vợ chồng cùng con cái họ, đang lắc lư theo tiếng nhạc lúc bên này lúc bên kia. Người hầu đi vào báo rằng có một nhà hảo tâm giấu tên gửi biếu hai vợ chồng một xấp sepulki.

Người ta bê ra sân khấu một cái hộp lớn. Nín thở, tôi theo dõi họ mở nắp hộp. Khi chiếc nắp bật lên, thì có một vật gì đó nện mạnh vào đỉnh đầu tôi và tôi ngất đi. Tôi tỉnh dậy vẫn ở chỗ ngồi cũ.

Trên sân khấu người ta không nói về sepulki nữa; ở đấy, giữa đám trẻ con và bố mẹ chúng, viên tư tế người tắt ngấm đang quằn quại miệng thốt ra những lời nguyền rủa độc địa. Tôi đưa tay sờ lên đầu – không thấy vết bươu.

- Chuyện gì đã xảy ra với tôi thế? – Tôi thầm thì hỏi bà ngồi bên cạnh.

- Sao ạ? À, một viên thiên thạch đã giết chết ông, nhưng ông không thiệt gì cả, cảnh ấy diễn ra đôi khi kinh khủng lắm. Tuy nhiên, điều này thật tồi tệ: người ta phải cử người đến tận Galax lấy phiên bản dự trữ của ông, – cái bà Ardrite tốt bụng thầm thì trả lời:

- Phiên bản nào cơ? – Tôi hỏi và thấy trước mắt tối sầm lại.

- Của ông, tất nhiên...

- Thế tôi đang ở đâu đây?

- Còn ở đâu nữa? Ở nhà hát. Ông thấy trong người không được khỏe à?

- Thế ra giờ tôi là phiên bản à?

- Đúng thế.

Ông ngồi bên cạnh tôi, vàng người ra vì giận dữ, lên tiếng gọi người giữ trật tự lại. Tôi như một thằng điên chạy ra khỏi nhà hát, ngồi ngay vào chiếc eboret đầu tiên chạy ngang qua, trở về khác sạn và chăm chú ngắm nghía mình trong gương. Tôi hơi mừng vì thấy mình vẫn hoàn toàn như cũ, nhưng khi kiểm tra kỹ càng hơn tôi phát hiện một điều thật khó chịu. Áo sơmi của tôi bị lộn trái và hàng khuy được gài không đúng phía của nó – bằng chứng rõ ràng là những người mặc quần áo cho tôi không có một chút khái niệm gì về quần áo của người Trái Đất cả. Thêm vào tất cả cái đó, tôi rũ từ trong túi bít tất ra những mẩu giấy vụn gói hàng mà trong lúc vội vã người ta đã bỏ quên. Tôi cảm thấy nghẹt thở; đúng lúc đó chuông điện thoại vang lên.

- Chúng tôi gọi điện cho ông lần này là lần thứ tư, – tôi nhận ra giọng của người nữ nhân viên Hội liên lạc văn hóa vũ trụ, – giáo sư Zazul muốn tiếp ông hôm nay.

- Ai cơ? Giáo sư ấy à? Tôi nhắc lại, dùng hết sức mạnh ý chí để tập trung tư tưởng. – Được, khi nào?

- Khi nào ông thấy tiện. Ngay bây giờ cũng được.

- Thế thì tôi sẽ đến chỗ giáo sư ngay bây giờ! – Đột nhiên tôi quyết định. – Và... xin cô thanh toán cho!

- Ông định bay ngay à? – Cô nhân viên ngạc nhiên.

- Vâng, đành phải thế thôi. Tôi thấy trong người khó ở lắm! – Tôi giải thích và đặt ống nghe xuống.

Thay quần áo xong tôi xuống dưới nhà. Những sự kiện vừa rồi tác động tới tôi mạnh đến nỗi khi ngồi vào eboret đúng lúc một tảng thiên thạch giáng cho tòa nhà khách sạn tan ra từng mảnh, tôi thậm chí chẳng buồn rùng mình và bình thản nói địa chỉ nhà giáo sư. Ông ta sống ở ngoại ô, giữa những ngọn đồi lấp lánh ánh bạc êm dịu. Tôi cho xe dừng cách nhà giáo sư khá xa, vui mừng vì có dịp tản bộ sau những giờ căng thẳng thần kinh vừa qua. Rảo bước trên đường, tôi nhận thấy một người Ardrite thấp bé đã có tuổi chậm chạp đẩy một cái gì giống như một chiếc xe cút kít có nắp.

Ông ta lịch sự chào tôi; tôi chào đáp lại. Chúng tôi đi cạnh nhau một lúc. Qua chỗ ngoặt hiện ra một khu vườn xanh tươi bao lấy ngôi nhà của giáo sư, phía sau khu vườn thấy cuộn lên những bụm khói tơi tả; ngay lúc đó có tiếng nói vọng ra từ dưới nắp xe:

- Sao, đến nơi rồi à?

- Chưa ạ, – người đẩy xe trả lời.

Tôi hơi ngạc nhiên nhưng không nói gì. Khi chúng tôi đi tới sát hàng rào, tôi chợt thấy khói bốc lên từ chính chỗ mà căn cứ theo dấu hiệu phải là ngôi nhà của giáo sư. Tôi lưu ý người đẩy xe về điều đó, ông ta gật đầu.

- Đúng. Đúng. Bị thiên thạch rơi vào. Mười lăm phút trước đây thôi.

- Thật ư! – Tôi kêu lên sợ hãi, Khủng khiếp quá!

- Xe chở gum sẽ đến ngay bây giờ, – người đẩy xe nói, họ chẳng vội chạy ra ngoại ô đâu, không như chúng tôi.

- Thế nào, đến chưa? – Lại nghe thấy cái giọng the thé từ trong xe vẳng ra.

- Chưa ạ, – người đẩy xe nói và quay sang phía tôi: Xin ông làm ơn mở hộ cánh cửa vườn.

Tôi như cái máy làm theo yêu cầu của ông ta và hỏi:

- Thế hóa ra ông cũng đến chỗ giáo sư...

- Vâng, tôi chở phiên bản của giáo sư đến, – ông ta trả lời và nhấc cái nắp lên.

Đờ ra vì sợ hãi, tôi nhìn thấy một cái bọc lớn được chằng buộc cẩn thận. Ở một chỗ giấy gói bị rách ló ra một con mắt người sống hẳn hoi

- Ông hỏi tôi... à... à, nghĩa là ông đến gặp tôi... – cái giọng ông già the thé lên trong bọc. – Tôi ra ngay đây... ra ngay đây. Xin mời ông, xin mời ông vào phòng khách.

- Vâng... vâng... Tôi chạy ngay đây, – tôi đáp.

Người Ardrite đẩy cái xe vào sâu bên trong, còn tôi quay lại nhảy qua hàng rào ba chân bốn cẳng chạy ra sân bay vũ trụ. Một tiếng sau tôi đã lướt trong khoảng không bao la đầy sao. Tôi hy vọng là giáo sư Zazul không giận tôi vì chuyện đó.


  • (1) Năm ánh sáng (tiếng Anh: light-year; viết tắt: ly) là đơn vị đo khoảng cách được dùng chủ yếu trong thiên văn học, có giá trị bằng quãng đường mà ánh sáng vượt qua được trong chân không sau thời gian một năm Julius, ứng với 31 557 600 s. Vì vận tốc ánh sáng trong chân không có giá trị khoảng 299 792 458 m/s, một năm ánh sáng ứng với khoảng: 9 460 730 472 580,8 km
  • (2) Viết tắt của chữ "Thiên thạch hỗn loạn". N.D.
  • LỜI NÓI ĐẦU
  • Cuộc phiêu lưu thứ bảy
  • Cuộc phiêu lưu thứ mười hai
  • Cuộc phiêu lưu thứ mười bốn
  • Cuộc phiêu lưu thứ hai mươi hai
  • Cuộc phiêu lưu thứ hai mươi lăm
  • Hãy cứu lấy vũ trụ (bức thư ngỏ của Ijon Tichy)
Copyright Silver Tracer - All Graphics and Scripts by Morning's Ears