Họ quyết định ngủ lại. Tù binh Nhân tỏ ra rất ân cần với Dũng. Ông ta nhìn Dũng ái ngại:
- Trông cháu yếu quá đấy. Chú thật không bằng hai con chó.Nghĩ dân đen như chú thật khổ: không theo bên này thì phải theo bên kia, đâu có được sống đúng với nghĩa "Dân lành vô tội".
Lời của tù binh Nhân xem ra có cái gì đó có lý, nhưng Dũng cảm thấy chua chát, pha lẫn chút tự ái, vì lòng tự hào bị dụng chạm.
Nhưng nó không tranh luận. Nó chỉ bảo:
- Cháu đỡ nhiều rồi! Mà chú đừng nguyền rủa mình quá lời.Chuyện đã qua là cho qua. Bây giờ cả hai chú cháu mình đang trong cùng một cảnh ngộ.
- Cám ơn cháu! Tù binh Nhân nói và đứng lên - Để chú kiếmcái gì nấu cho cháu bát cháo.
- Chân chú đang đau cơ mà? Có gì đây đâu mà kiếm? Nhờthuốc của cháu chân chú đỡ nhiều rồi. Kiếm vài con cá suối vậy.
Chú c-ũng bắt được cá suối à?
- Sao lại không? Suối này chắc nhiều cua cá lắm. Dọc đườngchú gặp rất nhiều bụi khoai mài. Thầy cháu làm thuốc Bắc, hẳn cháu biết hoài sơn chính là củ mài, một vị thuốc bổ. Chủ nghe lỏm thế. Thật múa rìu qua mắt thợ, phải không cháu? - Tù binh Nhân cười vui vẻ.
- Cháu không dám! Mà đất này khoai mài ăn sâu lắm, khôngcó thuổng thì không đào được đâu. Chú mà đào được củ mài thì cháu phục đấy.
- Cháu tưởng chú giàu lắm hả? Họ Tôn Thất cũng có người ăn mày đấy cháu ạ! Thôi, cháu nằm nghỉ đi. Để chú đi thử, may hơn khôn.
Nhân nói chân thành, nhưng Dũng thì vừa tin vừa ngờ: Có thật họ ông là Tôn Thất không? Họ Tôn Thất mà biết đào củ mài?
Nhân xách dao, gọi hai con chó đi về phía suối. Người ta nói chó săn rất nhạy cảm. Chúng xét đoán kẻ xấu, người tốt qua ánh mắt của họ. Thấy con Khoang và con Sói Lửa ngẩng nhìn Nhân, rồi ngoan ngoãn chạy theo ông ta, Dũng có phần yên tâm.
Nhân đi một lúc thì mang về một gói trứng rùa, củ mài và hai con cá quả to. Trứng rùa thì không lạ. Mùa này sau cơn mưa rào, rùa thường lên bãi suối, bởi cát đẻ trứng. Cá suối thì chỉ việc tìm hang bên bờ mà móc. Lạ là đất này mà Nhân đào được củ mài to và nạc như thế. Thì ra "may hơn khôn" thật. Tù binh Nhân gặp gốc khoai mài nằm sát bên bờ đất bị nước suối xói lở.
Trứng rùa luộc ăn chẳng kém trứng gà. Còn cháo củ mài nấu với cá quả trong cảnh ngộ này thật là một thứ thuốc bổ hảo hạng. Dũng và cả Nhân nữa, được trả lại sức lực rất nhanh.
Tối ấy vẫn chưa có dịp nói những chuyện riêng tư với nhau. Dù sao ở họ vẫn còn bị giới hạn vô hình ngăn cách: giới hạn địch - ta. Vả lại cuộc vật lộn suốt những ngày đêm qua, giờ được bù đắp bằng giấc ngủ. Dũng và Nhân ngủ rất say.
Về khuya Dũng bật dậy vì con Sói Lửa cắn vào tay áo mà kéo. Vừa kéo, con Sói Lửa vừa sủa. Còn con Khoang thì sủa như sủa kẻ trộm. Dũng kéo bật tù binh Nhân dậy, vừa giật lấy khẩu súng, vừa thì thào:
- Biệt kích! Tản ra rừng nhanh. Nếu lạc tìm đến chỗ cú kêu ba tiếng một. Đừng lên tiếng.
- Chắc gì? - Tù binh Nhân nói ngái ngủ - Chúng nó sủa sói rừng thôi.
- Biệt kích!
Dũng nhắc lại và nó chợt rùng mình nghĩ đến một kết cục thảm hại có thể xảy ra. Chuyện ra, đi rồi quay về của tù binh Nhân có gì liên hệ với cuộc tập kích này của biệt kích không? Nhưng thời gian không cho Dũng suy nghĩ lâu. Một con thú hừng hực lao vào trại, theo sau là vài ba bóng người. Con béc-giê và những tên biệt kích.
- Ra khỏi trại! - Dũng rít lên - Nhanh lên!
Dũng lao ra khỏi trại, chĩa súng vào tên biệt kích lấy cò, nhưng súng hết đạn. Dũng lẩn nhanh vào đêm rừng. Nhân lao theo Dũng. Nhưng đêm đen đã ngăn cách hai người.
Mấy tên biệt kích đã xông vào trại. Đèn pin bấm loang nhoáng. Dũng nấp sau một cây to, căng mắt nhìn vào những chỗ ánh sáng đèn pin rọi tới, vừa theo dõi, vừa phỏng đoán xem tù binh Nhân có liên hệ gì với bọn biệt kích không. Nhưng không thấy tăm hơi ông ta đâu cả. Con béc-giê sục sạo trong trại một lúc, rồi lao ra rừng. Hình như con chó Tây này đang bắt hơi đuổi theo tù binh Nhân. Bọn biệt kích bắn như vãi đạn về phía con béc-giê sủa.
Có tiếng Nhân kêu "ối" cách chỗ Dũng khoảng hai ngọn sào. Nó định lao tới với Nhân. Nhưng mấy băng đạn tiểu liên nổ chát chúa kìm chân nó lại. Tù binh Nhân bị thương? Dũng tự hỏi. Và thực tế trả lời nó ngay. Đạn vẫn bắn về phía Nhân đỏ lừ trong đêm. Dũng quên hết những gì hai người đã thống nhất trước khi ra khỏi trại, bất giác cất tiếng gọi:
- Chú Nhân, có sao không?
Không có tiếng Nhân trả lời, mà đáp lại lời Dũng là những băng đạn tiểu liên bắn xối xả. Đạn găm vào gốc cây Dũng đang nấp nghe bùm bụp.
Dũng nằm xuống nền rừng mò mẫm, ẩn vào sau những gốc cây to, rời xa chỗ nấp. Đèn pin nhằm vào chỗ Nhân kêu lúc nãy, tưởng soi rõ cả những con kiến bò dưới đất. Một tên biệt kích, chắc là chỉ huy hỏi:
- Còn sống không?
- Thưa sếp, còn. Nó bị thương ở chân, nhưng ngất xỉu. Tên chỉ huy hỏi Nhân, như thể hắn cũng sợ:
- Chúng mày có mấy tên?
Tiếng Nhân trả lời gọn lỏn, nhưng giọng yếu ớt:
- Đông…
- Thưa sếp, nó lại ngất!
- Để cha nó đấy đã! Đuổi theo bọn chạy trốn!
Thưa sếp, tối lắm! Khéo sa vào bẫy của chúng nó à!
- Theo con béc-giê! Lũ bay không bằng con chó!
Con Khoang và con Sói Lửa quay lại đón đầu con béc-giê. Đạn vãi về hướng con béc-giê sủa. Tên chỉ huy quát bọn lính:
- Ngu, nâng súng lên! Trúng con béc-giê chúng mày phải đền mạng đấy.
Bỗng có tiếng con Khoang kêu "ẳng" lên, rồi im bặt. Con Khoang trúng đạn? Dũng đau nhói trong tim, định cất tiếng gọi con Khoang. Nhưng đạn giặc bắn xối xả.
Con béc-giê từ nãy đến giờ không dám rời xa bọn biệt kích. Con chó Tây này khôn thật, nó sợ hai con chó của Dũng. Được chủ cổ vũ, con chó Tây giờ mới say máu bám theo Dũng.
Bỗng có tiếng "hực" cất lên, cùng tiếng con béc-giê kêu "ẳng". Con Sói Lửa phục bên đường, dùng đòn tấn công tạt sườn, đã giết chết con béc-giê. Lại có tiếng "ối!" cùng tiếng vật lộn. Hẳn con Sói Lửa đang vật nhau với một tên biệt kích. Một lúc tên chỉ huy ra lệnh:
- Rút! Cáng theo tên tù binh. Thằng kia, súng đâu? Tìm lại súng!
- Thưa sếp, em bị sói vồ. Em sợ lắm.
Dũng đang theo dõi bọn biệt kích thì bỗng giật thót. Hai chân trước của một con thú chồm lên vai, cái đầu thú xù lông ghé sát vào cổ. Con Sói Lửa rên khe khẽ. Thật hú vía.
Dũng ôm lấy con Sói Lửa, nóng lòng chờ con Khoang, nhưng không thấy. Thế là con Khoang đã chết. Một cảm xúc không kìm nổi trào lên, Dũng xót xa, gục đầu vào vai con Sói Lửa, nghe rõ cả những nhịp rung trong cơ bắp của con chó dũng cảm.
Dũng ngồi như thế một lúc lâu. Rừng khuya trở lại yên ắng hẳn. Dũng thận trọng quay về trại. Con Sói Lửa chừng như cũng buồn, lặng lẽ theo sát chủ.
Đêm rừng càng về khuya càng tối đen. Con Sói Lửa, trên đường trở về trại, dẫn Dũng đến chỗ con Khoang bị đạn. Con Khoang không còn đấy nữa. Vậy là nó còn sống? Hay là nó cũng bị bắt đi nốt? Dũng buồn rầu về đến trại.
Bếp lửa tro hãy còn nóng. Dũng còi bếp tìm xem còn chút than lửa nào nữa không. Con Sói Lửa đang sục sạo, ngửi hít phía bên kia bếp, rên rỉ khe khẽ.
Đang quờ quạng tìm củi, tay Dũng bỗng dụng phải một vật gì mềm mềm. Ôi, con Khoang. Nó bị một phát đạn xuyên thủng ngực, cố lết về nằm chết ở đây, nơi tổ ấm dù là rất tạm bợ này.
Nhất thiết phải rời ngay khỏi trại. Dũng vội nhặt nhạnh các thứ. Cũng may gói thịt vẫn còn. Dũng gọi con Sói Lửa, ra khỏi trại. Đi đâu bây giờ? Không thể đi xa được. Vả lại cũng cần theo dõi bọn biệt kích, xem chúng có kế hoạch gì, nếu chúng quay lại. Tốt nhất là trèo lên cây tạm nghỉ qua đêm. Con Sói Lửa thì khỏi phải lo cho nó.
Dũng tìm một cây to, nhiều nhánh đâm ngang, leo lên, ngồi vào cái chạc ba, tai căng ra nghe ngóng mọi động tĩnh. Con Sói Lửa ngồi dưới gốc cây, chốc chốc lại rên rỉ, nớm gót chạy đi đâu không rõ. Nó mất hút một lúc rất lâu mới trở lại gốc cây. Chắc hẳn nó quay về trại, nơi con Khoang đang "yên giấc".
Đêm yên tĩnh đến hãi hùng. Và thật kỳ quặc, Dũng có ý mong bọn biệt kích quay lại. Có lẽ Dũng sợ tĩnh mịch và cô đơn. Thế là bí mật về Nhân, cùng con đường ông ta vừa tìm ra lại mất đầu mối.
Từ trại cất lên một tiếng sói rú não nề. Con Sói Lửa đang tru kéo dài bên xác con Khoang; thê thảm như một người đàn ông khóc vợ. Dũng trào nước mắt...